Thông tin kỹ thuật T-80

Vũ khí

T-80 cũng được trang bị 6 tên lửa có điều khiển chống tăng: T-80B dùng hỏa tiễn chống tăng 9K112 Korba (NATO gọi là AT-8 Songster) của T-64. Tên lửa được bắn qua nòng pháo, có thể tiêu diệt mục tiêu từ cự ly xa 4.000 (trong khi cự ly hiệu quả của đạn pháo tăng thông thường chỉ khoảng 3.000 mét), cho phép T-64 tiêu diệt xe tăng địch trước khi chúng có thể bắn trả. 9M112 Kobra cũng có thể tiêu diệt được trực thăng địch (nếu nó đang bay chậm và ở độ cao thấp).

Đến T-80U thì dùng loại tên lửa mới là 9M119 Svir (AT-11 Sniper), 9M119M (AT-11B Refleks). Tầm hoạt động của tên lửa từ 100 đến 5.000 mét. Hệ thống được thiết kế để chống lại các xe tăng có trang bị ERA (Lớp bảo vệ nổ phản ứng) cũng như các mục tiêu bay thấp như máy bay trực thăng, trong phạm vi lên đến 5 km. Hệ thống tên lửa bắn ra cả hai loại tên lửa 9M119 hay 9M119M, có hướng dẫn bán tự động bằng chùm laser. Tổ hợp 9M119 đảm bảo bắn mục tiêu đứng yên và di chuyển với tốc độ 70 km/h trên các cự ly từ 100 đến 5.000 mét khi xe tăng di chuyển với tốc độ là 30 km/h. Đây là ưu điểm khác biệt so với tổ hợp 9K112 Kobra – chỉ có thể bắn khi xe đứng yên tại vị trí cố định.

T-80 sử dụng các phiên bản của khẩu pháo chính 125 ly nòng trơn 2A46 cùng với một hệ thống nạp đạn tự động (giống như "mốt" của dòng họ T trong nửa cuối thế kỷ 20) với ống bọc cách nhiệt bên ngoài, có thể bắn từ 6 đến 8 viên/phút. Nạp đạn thuỷ cơ học với băng đạn 28 viên. Trong xe có 45 viên đạn. Súng chính bắn đạn liều rời đặt trong vỏ chống bắt lửa. Đạn có thể là APDS (Armour Piercing Discarding Sabot) hoặc APFSDS, HEAT (High Explosive Anti-Tank) và HE-FRAG (High Explosive-Fragmentation). T-80UD của Ukraina cũng trang bị khẩu 125 ly, nhưng kiểu KBA3.

Ngoài pháo chính, T-80 được trang bị một đại liên đồng trục PKT 7,62 ly và đại liên phòng không (NVST-12.7) 12,7 ly điều khiển từ trong vị trí chỉ huy của xa trưởng. Ngoài ra còn đại liên đồng trục PKT KT-7.62 7,62 ly và đại liên phòng không KT-12.7 12,7 ly dành cho T-80UD.

Giáp trụ và hệ thống bảo vệ

Giáp trụ của T-80 thay đổi tùy theo phiên bản, các phiên bản hiện đại hóa có giáp dày hơn những phiên bản cũ. Nhưng nhìn chung, T-80 có hệ thống giáp bảo vệ tốt hơn so với T-64 nhờ sử dụng giáp dày hơn, phẩm chất tốt hơn và thừa hưởng những đặc tính tốt từ T-64.

Kế tục T-64, T-80 cũng dùng giáp composite. Lớp Composite của T-80 dày hơn, có các lớp thép đúc + sợi thủy tinh và lớp thép đúc + phi kim. T-80B thì dùng giáp composite K với lớp gốm. Đến T-80U thì có thêm có váy bảo vệ với những tấm cao su chống mìn. Váy trước bọc giáp và dùng vỏ bọc hút sóng radar. Có 5 ống phóng lựu đạn khói nằm ở bên phải tháp pháo và bảy cái bên trái.

Xe tăng T-80BTháp pháo của T-80BV với giáp phản ứng nổ Kontakt-1Xe tăng T-80U với giáp phản ứng nổ Kontakt-5

Độ dày lớp giáp quy đổi của T-80 là khoảng 500mm thép RHA ở trước tháp pháo và khoảng 450mm thép RHA ở mặt trước thân xe, có thể chống đạn 105 ly. Độ dày lớp giáp của T-80B cao hơn như vậy một chút.

Từ giữa thập niên 1980, T-80BV và T-80VK có thêm hệ thống hỗn hợp bảo vệ với giáp phản ứng nổ (gạch ERA) Kontakt-1. Loại Kontakt-1 có tác dụng làm giảm tới 50% sức xuyên phá của đạn nổ lõm chống tăng, tức là khi trang bị loại giáp này thì khả năng chống chịu của xe tăng khi bị trúng đạn nổ lõm sẽ tăng lên gấp đôi. Trong chiến tranh Checchen năm 1994, có 1 xe T-80BV của Tiểu đoàn xe tăng cận vệ 133 đã bị trúng tới 18 quả đạn súng chống tăng mà vẫn không bị tiêu diệt.

Còn T-80U dùng loại giáp phản ứng nổ thế hệ 2 là Kontakt-5. Kontakt-5 có khả năng giảm 50% sức xuyên phá của đạn nổ lõm và giảm 25% độ xuyên phá của đạn xuyên giáp động năng APFSDS. Phiên bản T-80U khi được gắn Kontakt-5 sẽ đạt độ dày bảo vệ tương đương 750mm thép cán tiêu chuẩn ở mặt trước tháp pháo khi chống đạn APFSDS hoặc đạt 1.100mm thép khi chống đạn nổ lõm. Trong suốt thập niên 1990-2000, các chỉ số này là không thể xuyên phá bởi các loại đạn pháo cỡ 120mm của M1 Abrams, Leopard 2 hoặc Leclerc (các loại xe tăng chủ lực của phương Tây giai đoạn 1990-2020). Phải tới cuối thập niên 2000, khi công nghệ phát triển hơn thì đạn pháo APFSDS cỡ 120mm của xe tăng NATO mới có thể xuyên được lớp giáp này, nhưng cũng chỉ ở cự ly gần hơn 2.000 mét.

Năm 2006, Nga cho ra mắt loại giáp phản ứng nổ thế hệ 3 tên là Relikt, loại này sẽ trang bị cho T-80 nâng cấp (T-80BVM). So với Kontakt-5, Relikt có hiệu quả gấp đôi khi chống đạn xuyên giáp động năng, tức là có thể giảm 50% sức xuyên phá của đạn xuyên giáp động năng. Nếu trang bị loại giáp phản ứng nổ này, mặt trước tháp pháo của T-80BVM có thể đạt mức bảo vệ ~1.000mm thép chống đạn xuyên giáp động năng, mức độ này là rất khó xuyên phá với pháo cỡ 120mm trên xe tăng phương Tây, kể cả khi sử dụng các loại đạn APFSDS mới nhất.

Các phiên bản hiện đại hóa như T-80UK/UE/UM có dùng hệ thống ngăn chặn quang điện tử học TShU-1-7 Shtora-1 (tiếng Nga: Штора-1, có nghĩa là "Bức màn chắn") sản xuất bởi Elektromashina. Shtora được thiết kể để phá hoại sự chỉ định mục tiêu bằng laser và thiết bị đo xa của Tên lửa điều khiển chống tăng đang bay đến. Shtora-1 là một thiết bị gây nhiễu âm điện quang (electro-optical), khi hoạt động nó sẽ làm nhiễu quá trình điều khiển đường ngắm bán tự động (semiautomatic command to line of sight - SACLOS) của hệ thống định hướng của tên lửa chống tăng có điều khiển, làm nhiễu máy dò laser và máy chỉ thị mục tiêu của kẻ địch. Có thể nói Shtora-1 là một hệ thống tiêu diệt mềm hay hệ thống trả đũa. Nó hiệu quả nhất khi được sử dụng cùng với một hệ thống tiêu diệt cứng như Arena. Trong Triển lãm quốc phòng quốc tế (IDEX) được tổ chức tại Abu Dhabi năm 1995, hệ thống này lắp đặt vào một xe tăng trưng bày của Nga.[11]

Hệ thống Shtora-1 bao gồm bốn thành phần chủ yếu: trạm giao diện điện quang gồm một đài làm nhiễu âm, một thiết bị điều biến, và thanh điều khiển; một bảng làm nổ lựu đạn tạo màn khói ở mỗi bên tháp pháo; một hệ thống cảnh báo khi xe bị chiếu xạ bởi tia laser; một hệ thống kiểm soát gồm thanh kiểm soát, máy tính xử lý và thanh điều khiển bằng tay. Thiết bị này xử lý thông tin từ các cảm biến và kích hoạt hệ thống tạo màn khói. Shtora-1 có trường quan sát tới 360 độ theo chiều ngang và từ -5 đến +25 độ theo chiều dọc, nó có 12 ống phóng đạn tạo màn khói, cả hệ thống cân nặng 400 kg.

Nguyên lý hoạt động của hệ thống Shtora-1 như sau: Hai đèn hồng ngoại OTShU-7-1, mỗi chiếc ở một bên của tháp pháo, liên tục phát ánh sáng hồng ngoại công suất lớn để làm giả tín hiệu hồng ngoại, khiến hệ thống điều khiển bắn của tên lửa chống tăng nhầm lẫn giữa tín hiệu tên lửa và Shtora, làm nó dẫn hướng sai khiến tên lửa bay chệch hướng. Ngoài ra, khi các cảm biến của hệ thống phát hiện xe tăng đã bị "chiếu xạ" bởi tia laser định vị thì máy tính sẽ tính toán xác định các thông số về quỹ đạo của tia laser và sẽ phát lệnh phóng các quả đạn khói về phía đó. Màn khói chỉ chưa cần tới 3 giây đã có thể hình thành và kéo dài khoảng 20 giây. Phạm vi triển khai của màn khói từ 50—70 mét. Màn khói này sẽ gây nhiễu các thiết bị chỉ định bằng laser cũng như ngụy trang cho xe tăng trước các thiết bị ngắm bắn quang học. Khi gặp màn khói này, tín hiệu điều khiển bằng laser sẽ bị nhiễu và tên lửa sẽ mất điều khiển, nó chỉ còn bay theo quán tính. Trong khi đó, xe tăng tiếp tục cơ động và di chuyển tới vị trí khác, khiến tên lửa trượt mục tiêu.[11]

Các phiên bản T-80UM1, T-80BVM có thể trang bị thêm hệ thống phòng thủ chủ động Drozd hoặc ARENA. Hệ thống phòng thủ chủ động (APS - Active Protection Systems) ARENA trên T-90 là lớp bảo vệ thứ hai của xe nếu Shtora-1 không gây nhiễu được tên lửa của địch. Arena-E được thiết kế để lắp đặt trên nhiều phương tiện chiến đấu khác nhau, có khả năng bảo vệ xe tăng trước tên lửa chống tăng, đạn chống tăng các loại với góc bảo vệ đạt tới gần 300 độ xung quanh xe (trừ hướng phía sau có bộ binh). Hệ thống gồm một radar sóng mm lắp trên nóc tháp pháo, máy tính điều khiển và 26 đạn nổ đánh chặn chứa trong các hộp lắp xung quanh tháp pháo, cung cấp khả năng bảo vệ hữu hiệu trước đạn chống tăng có tốc độ bay đạt tới 700m/giây và thời gian phản ứng là khoảng 0,07 giây.

Mô phỏng nguyên lý hoạt động của ARENA

Nguyên tắc hoạt động của hệ thống APS ARENA là: Anten cảm biến phát hiện vũ khí chống tăng ở cự ly 50m; hệ thống máy tính thu nhận và tính toán tốc độ, quỹ đạo đường đạn cũng như góc tiếp xúc..., từ đó ra chỉ thị kích hoạt phóng đạn nổ, và tiêu diệt chúng ở cự ly cách xe từ 7-10m. Với các mục tiêu có tốc độ bay từ 50–70 m/s thường được coi là không nguy hiểm với xe tăng nên máy tính của hệ thống Arena không ra lệnh đánh chặn, chỉ những mục tiêu có vận tốc trên 70 m/s, thiết bị phóng đạn mới được kích hoạt. Khi được kích nổ, quả đạn phóng ra một luồng mảnh đạn định hướng gồm hàng nghìn mảnh nhỏ để phá hủy tên lửa hay đầu đạn của vũ khí chống tăng. Sau khi đánh chặn, chỉ từ 0,2-0,4 giây sau, xe đã có khả năng đánh chặn tiếp 1 quả đạn khác.

Nói chung là giáp trụ của T-80 rất chắc chắn, đúng như trường phái tăng Liên Xô hiện đại. Việc này là nhờ vào kích cỡ thon gọn và dung tích tối ưu (đặc trưng của xe tăng T). Mặc dù to và nặng hơn T-72, T-90 khá nhiều nhưng so với xe tăng phương Tây và Mĩ như M1 Abrams, Leopard 2, Challenger,... thì T-80 vẫn rất "mi nhon". Nhờ đó mà diện tích bề mặt cần bọc giáp nhỏ, nên mật độ giáp rất cao, lượng nguyên liệu cần dùng giảm, khối lượng xe tăng giảm đáng kể. Giống T-64, T-80 to hơn T-72 để cho khoang lái rộng, tổ lái được thoải mái, vì thế nó cũng nặng hơn.

Cũng như xe tăng Liên Xô, hòm đạn được đặt ở nơi an toàn nhất: trong khoang lái, phía dưới tổ lái, nằm trong ổ quay đạn. Bản thân ổ quay đạn cũng ở vị trí an toàn. Tuy nhiên, việc này vẫn tiềm ẩn nguy hiểm tính mạng cho tổ lái: khi hòm đạn bị bắn nổ thì mảnh đạn sẽ văng trúng binh sĩ gây thương vong, thậm chí còn hất tung tháp pháo lên trời. Viên đạn nằm ngoài thiết bị nạp cũng nguy hiểm: tổ lái hầu như không được bảo vệ khỏi những mảnh kim loại nóng phừng phừng khi chỗ nạp đạn bị bắn nổ, nhất là khi dùng vỏ đạn bằng chất bán cháy thay vì dùng đồng. Vì vậy thường thì người ta chỉ mang 28 viên đạn trong 1 xe (dù xe chứa được tới 40-45 viên), mặc dù điều này khiến T-80 tác chiến bất lợi hơn trong những nhiệm vụ có cường độ cao. Nhưng một số mẫu T-80UD cải tiến của Ucraina dùng tháp pháo lai kiểu Phương Tây (làm thêm khoang chứa đạn phía sau tháp pháo) nên hạn chế được nhược điểm này.

T-80 cũng được bảo vệ các thanh vỏ giáp kiểu yếm xung quanh. Các biện pháp đối phó khác còn gồm chế độ chạy ít tiếng ồn và động cơ tuốc bin khí chạy nhiên liệu không khói, hệ thống cách nhiệt bên trên và bên dưới đã được cải tiến, thông gió cho hệ thống truyền động động cơ, hệ thống làm mát, hệ thống phun khói và quạt khói.

Hệ thống kiểm soát hỏa lực

Hệ thống kiểm soát bắn và quan sát của xe là loại 1A42 gồm hệ thống computer dẫn đường 1V517, hai hệ thống ổn định vũ khí thuỷ điện hai trục, ống ngắm tầm xa được ổn định trên hai trục cũng như một dụng cụ chỉ thị góc phương vị GPK-59 hydro-semicompass và một dụng cụ chỉ thị góc phương vị cho sự quay của tháp pháo. Hệ thống kiểm soát bắn bằng máy vi tính, máy đo xa laser cùng kính nhìn đêm của pháo thủ cho phép T-80 chiến đấu hiệu quả với các mục tiêu di động và chiến đấu vào buổi đêm. T-80 cũng có máy đo khoảng cách dùng laser, vị trí nhìn (visual key) to hơn.

Đến T-80U/UD thì được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực tiên tiến 1A45 "Irtysh", bao gồm máy tính đạn đạo, máy đo xa laser cùng kính nhìn đêm của pháo thủ cho phép T-80 chiến đấu hiệu quả với các mục tiêu di động và chiến đấu vào buổi đêm, bao gồm:

  • Thiết bị ngắm và đo xa laser 1G46 để ngắm và điều khiển vũ khí, bao gồm hệ thống kinh ngắm quang học kiểu tiềm vọng với độ khuếch đại từ 2,7x đến 12x, thiết bị đo xa laser có phạm vi từ 400m đến 5000m, hệ thống ổn định tầm hướng, hệ thống điều khiển tên lửa ПТУР (chiếu xạ laser). Trong hệ thống 1G46 có lắp đặt thiết bị kiểm tra vũ khí đồng trục với kính ngắm không cần phải ra khỏi xe – thời gian kiểm tra đến 1 phút.
  • Máy tính quỹ đạo đường đạn 1V528-1 tự động tính toán góc bắn tầm hướng cho pháo và giữ cho pháo ở vị trí ổn định với góc bắn đã được tính toán, máy tính đường đạn tính toán tất cả các thông số liên quan đến góc bắn của pháo tăng, máy tính quỹ đạo đường đạn còn thực hiện nhiệm vụ khóa súng và cho phép khai hỏa.
  • Tổ hợp các cảm biến thông tin phục vụ cho máy tính quỹ đạo đường đạn (cảm biến vị trí pháo, tốc độ gió, tốc độ xe tăng và góc của hướng xe so với mục tiêu);
  • Hệ thống ổn định tầm hướng 2E42-4 Zasmin (2Э42-4) sử dụng thiết bị nâng hạ thủy lực – điện, cho phép ngắm chính xác mục tiêu khi xe đang di chuyển, đồng thời tăng tốc độ ngắm bắn.

Trong một cuộc trình diễn vào thập niên 1990, một chiếc T-90 (dùng hệ thống điều khiển hỏa lực giống như T-80U) đã phóng tên lửa đánh trúng mục tiêu ở khoảng cách 4 km. Sau đó, nó di chuyển với tốc độ 25 km/h, bắn trúng 7 mục tiêu xe bọc thép ở cự ly 1.500-2.500 m, tất cả chỉ diễn ra trong vòng 54 giây (tức là chỉ cần chưa đầy 8 giây để ngắm bắn chính xác 1 mục tiêu mới ở cự ly khá xa, trong khi xe đang di chuyển)[12]

Hệ thống quan sát

Kính ngắm của pháo thủ T-80UKính ngắm của trưởng xe T-80U

Loại T-80 đời đầu (Model 1976) những loạt sản xuất đầu tiên được trang bị hệ thống xác định khoảng cách cho pháo thủ bằng hình ảnh quang học lập thể TPD-2-49 (được trang bị cho T-64A vào năm 1967). Nó có độ chính xác ± 200 mét ở khoảng cách 4 km, hoặc ± 30 mét ở phạm vi 1 km. So với xe tăng NATO cùng thời kỳ, TPD-2-49 có tính năng ít nhất là ngang bằng so với thiết bị tương tự trên xe tăng Leopard 1 của Đức, và vượt trội so với hệ thống M17 trên xe M60A1 của Mỹ.

Mẫu T-80 model 1976 những loạt sản xuất sau thay thế TPD-2-49 bằng hệ thống ngắm TPD-K1 xác định tầm bắn bằng laser, tích hợp với máy tính đạn đạo có thể tính toán đường đạn dựa trên nhiệt độ môi trường xung quanh, nhiệt độ nòng pháo, áp suất khí quyển. Hệ thống này có sai số tối đa 10 mét ở khoảng cách 3 km, hoặc 15 mét ở khoảng cách 4 km. Nó giúp tăng đáng kể khả năng bắn trúng mục tiêu di chuyển ở khoảng cách trên 2.000 mét hoặc xa hơn. Hệ thống TPD-K1 ra đời năm 1975, sớm hơn 3 năm so với hệ thống xác định tầm bắn bằng laser AN/VVG-2 trên xe tăng M60A3 của Mỹ. Các xe tăng Leopard 1 của Đức đã không có máy đo khoảng cách bằng laser cho đến khi những năm 1980, và các xe tăng Anh phải đến năm 1988 mới có thiết bị này.

Phiên bản xe tăng T-80B (1978) được trang bị hệ thống nhìn đêm TPN-3-49 dành cho pháo thủ, nó sử dụng công nghệ khuếch đại ánh sáng thế hệ thứ 3 mới hơn, tốt hơn so với hệ thống TKN-3MK trên T-80 đời đầu, nhưng vẫn kém hơn so với hệ thống ngắm ảnh nhiệt thế hệ đầu tiên. Hệ thống có tầm phát hiện xe tăng là 1.300 mét trong chế độ chủ động và 850 mét trong chế độ thụ động trong điều kiện đêm tối gần như hoàn toàn (độ sáng 0.003 lux) (các cự ly này có thể tăng thêm vài trăm mét vào đêm trăng sáng).

Phiên bản xe tăng chỉ huy T-80UK (cuối thập niên 1980) được trang bị hệ thống ngắm ảnh nhiệt T01-P02 Agava-2 dành cho pháo thủ, độ phóng đại tối đa 18x, có tầm quan sát trong đêm đạt tới 4.600-6.400 mét, và có thể xác định rõ mục tiêu kích cỡ xe tăng trong khoảng 2.600 mét[13]. Hệ thống ngắm ảnh nhiệt này có chất lượng tương đương với những hệ thống ảnh nhiệt thế hệ 1 trang bị trên xe tăng phương Tây vào cuối thập niên 1980. Tuy nhiên do giá thành đắt (khoảng 250.000 USD theo thời giá 1990) nên chỉ phiên bản xe tăng chỉ huy T-80UK được trang bị hệ thống này, còn phiên bản thông thường T-80U được trang bị hệ thống ngắm hồng ngoại T01-K04 Buran-R cho xa trưởng và hệ thống đo xa laser 1G46M cho pháo thủ; kênh tăng cường hình ảnh thay cho đèn hồng ngoại ở nóc tháp pháo dành cho xa trưởng, có tầm quan sát trong đêm đạt khoảng 1.500 - 1.750 mét.

Đến năm 1993, Nga cho ra mắt phiên bản T-80UM, trang bị hệ thống ngắm ảnh nhiệt hiện đại hơn là T01-P06 (Agava-M1) sử dụng camera ảnh nhiệt NOCTURNE do công ty ZENIT sản xuất. Agava-M1 gọn nhẹ hơn, nó sử dụng ma trận điểm ảnh (MCT) kích thước 512x256 và các cảm biến mạnh hơn, giúp tăng cự ly quan sát. Nó có tầm quan sát trong đêm đạt tới 7.500 mét, và có thể xác định rõ mục tiêu kích cỡ xe tăng trong khoảng 2.800 mét. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước Nga bị khủng hoảng kinh tế vào đầu thập niên 1990, chỉ có rất ít hệ thống Agava-M1 được chế tạo[14]

Các phiên bản T-80 nâng cấp do Ucraina thực hiện vào cuối thập niên 1990 (T-80UD, T-84) thì trang bị hệ thống ngắm ảnh nhiệt BURAN-MATIS do Ucraina tự chế tạo. Nó có tầm quan sát trong đêm đạt 7.000 mét, và có thể xác định rõ mục tiêu kích cỡ xe tăng trong khoảng 2.500 mét.[15]

Kể từ năm 2016, các phiên bản hiện đại hóa dành riêng cho quân đội Nga (T-80BVM) đã chuyển sang sử dụng hệ thống nhìn đêm ảnh nhiệt nội địa là "IRBIS-K" do hãng Krasnogorsky Zavod sản xuất, nó có thể xác định rõ mục tiêu kích cỡ xe tăng trong khoảng 3.240 - 4.000 mét.

Đối với xa trưởng, mẫu T-80U (năm 1986) được trang bị hệ thống nhìn toàn cảnh PNK-4S/AGAT-S dành cho xa trưởng, có khả năng phát hiện xe tăng trong tầm khoảng 800 mét vào ban ngày và 700 mét vào ban đêm. Hệ thống PNK-4S được cho là còn vượt trội hơn các hệ thống nhìn toàn cảnh cho xa trưởng tốt nhất trên xe tăng NATO vào cuối thập niên 1980, như là PERI-R17 trên xe tăng Leopard 2: cả hai đều kết nối trực tiếp với máy tính đạn đạo của xe tăng, cho phép xa trưởng chiếm quyền điều khiển pháo để thực hiện chức năng "Hunter-Killer", tuy nhiên PNK-4S có khả năng nhìn đêm mà PERI-R17 không có (phải tới năm 1998 thì Leopard 2 mới được trang bị hệ thống PERI-R17A2 có khả năng nhìn đêm)[16]

Từ năm 2012, các phiên bản T-80 hiện đại hóa dành riêng cho quân đội Nga đã thay thế PNK-4S/AGAT-S bằng hệ thống mới hơn là T01-K04DT/AGAT-MDT do hãng Krasnogorsky Zavod sản xuất. Nhờ thay thế thiết vị khuếch đại ánh sáng bằng thiết bị ảnh nhiệt mới, AGAT-MDT có tầm phát hiện mục tiêu cỡ xe tăng ở cự ly lên tới 3.500 - 4.000 mét[17][18], một tùy chọn cho phép AGAT-MDT nâng cự ly phát hiện xe tăng lên tới 5.000 mét cũng đã có sẵn[19]

Tính cơ động và tốc độ

Như đã nói, T-80 được trang bị động cơ tuốc bin khí, nên công suất của nó thuộc loại cực cao của quân đội Liên Xô. Ban đầu là GT-1000T 1000 mã lực, sau đó tăng dần đến đỉnh điểm là GTD-1250 1250 mã lực của T-80U (chú ý là động cơ T-72 và T-90 hiện đại nhất chỉ là 1100 mã lực). Xung lực của T-80 có thể lên tới 26,5 mã lực/tấn (T-90 là 24 mã lực/tấn). GTD-1250 là động cơ ba trục với hai tầng nén khí. Có một động cơ GTA-18 phụ trợ độc lập khác dùng khi xe tăng đứng yên.

Vì vậy không ngạc nhiên khi T-80 cực kỳ cơ động (vận tốc tối đa 70 km/h, trong khi T-90 là 65 km/h). Nó chia sẻ danh hiệu "xe tăng bay" của xe tăng Leopard 2. Tất nhiên một số xe tăng phương Tây cũng dùng động cơ tuốc bin khí (M1 Abrams có công suất 1500 mã lực) nhưng kích thước và khối lượng của T-80 nhỏ hơn (nặng nhất là 50 tấn, còn M1 Abrams mi-nhon nhất là 61 tấn với kích thước gấp đôi) nên T-80 vẫn "bay" tốt hơn.

Hơn nữa, động cơ của T-80 có thể sử dụng nhiều loại nhiên liệu: từ xăng dùng cho động cơ phản lực đến xăng có chỉ số octane thấp, cho dầu diesel cũng chạy tốt. Động cơ cũng hoạt động khá ổn định, tuổi thọ cao, và GTD-1250 thì có thêm hệ thống tự loại bỏ bụi bẩn.

Có điều, công suất nào xăng nấy, động cơ tuốc bin khí ngốn quá nhiều nhiên liệu, ngay cả lúc xe đứng yên nó cũng "ăn" nhiên liệu dữ dội, nên phía Ukraine đã phát triển các bản T-80 và T-84 dùng động cơ diesel công suất thấp hơn một chút nhưng hiệu suất cao hơn, ít hao nhiên liệu. Nói chung T-80 của Ukraine vẫn giữ được danh hiệu "xe tăng bay" của dòng họ mình.

Để phù hợp với động cơ mới, T-80 có một hệ thống truyền lực kiểu hành tinh với hệ thống dẫn nước phụ (hydraulic servo-system) để tăng tính cơ động. Xích và hệ thống treo được trang bị kiểu xích RMSh và các bánh xe cao su để chạy trên đường, các lò xo treo giảm xóc có hai tầng giảm chấn chất lỏng lồng vào nhau.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: T-80 http://www.army-technology.com/projects/t80/ http://www.inetres.com/gp/military/cv/tank/T-80.ht... http://www.popularmechanics.com/technology/militar... http://survincity.com/2013/10/of-kmz-complex-produ... http://www.youtube.com/watch?v=gG2zb9iVvt8 http://www.kotsch88.de/f_agava-2.htm http://www.kotsch88.de/f_nocturne.htm http://www.jedsite.info/tanks-tango/tango-numbers-... http://www.knox.army..mil/center/ocoa/ArmourMag/ja... http://www.globalsecurity.org/military/world/belar...